Ngày Quốc khánh Việt Nam là ngày lễ quan trọng nhất trong năm, được cả nước hân hoan kỷ niệm vào ngày 02 tháng 9 hàng năm. Ngày này ghi dấu sự kiện lịch sử mang tính quyết định của dân tộc Việt Nam, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày Quốc khánh Việt Nam không chỉ là dấu son trong lịch sử dân tộc mà còn là biểu tượng của sự tự do, độc lập và chủ quyền của dân tộc Việt Nam. Ngày Quốc khánh Việt Nam cũng là nguồn cảm hứng cho nhân dân Việt Nam tiếp tục xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, duy trì hòa bình và hợp tác quốc tế.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự vĩ đại của ngày Quốc khánh là một trong những thắng lợi to lớn trong thế kỷ XX của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thế nhưng, cứ vào dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 02/9, các thế lực thù địch, phản động lại tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng nước ta. Đặc biệt, lợi dụng các trang mạng xã hội, chúng xuyên tạc, phủ nhận, bóp méo sự thật về giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của sự kiện lịch sử này.
Những giọng điệu mà các thế lực thù địch đưa ra như: “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sai lầm lịch sử”, “không có gì thay đổi chế độ xã hội ở Việt Nam, chẳng qua chỉ là thay từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị””(!)... Chúng còn cho rằng những thắng lợi mà Đảng ta, Nhân dân ta đã đổ xương máu để giành được “đó là sự ăn may, vì Nhật thua trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chứ Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng có tài cán gì”; rằng “do khoảng trống quyền lực, nên Việt Nam dễ giành được kết quả nhanh chóng”(!). Một số lại cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 “là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam”; “nếu không có Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước ta đã giàu mạnh từ lâu và không mất dân chủ như bây giờ”... Thực chất, đây chính là những luận điệu xuyên tạc, ấu trĩ. Ẩn đằng sau những luận điệu đó chính là mưu đồ nhằm hạ thấp uy tín, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh; hạ thấp, phủ nhận sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam; xem nhẹ giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Quốc khánh 02/9; bôi nhọ, xuyên tạc, nhằm tạo nên góc nhìn phiến diện, sai lệch của một số người dân của các nước trên thế giới chưa nhận thức đúng thực tế khách quan, chưa hiểu đúng thực chất những thành quả cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực tế lịch sử đã chứng minh, để Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi trong mùa thu lịch sử năm 1945, bằng trí thông minh, tinh thần cách mạng triệt để, nghệ thuật lãnh đạo và phương pháp cách mạng khoa học, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Nhân dân ta trải qua 3 cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vô cùng gian khổ, khốc liệt, với ba cao trào cách mạng: Cao trào cách mạng 1930 - 1931, với đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945). Trong thời khắc quyết định của lịch sử dân tộc, Người đã ra lời kêu gọi tổng khởi nghĩa: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta...” mà minh chứng cho điều đó là ngày Quốc khánh lịch sử 02/9/1945.
Để hiểu rõ hơn về giá trị lịch sử của ngày Quốc khánh Việt Nam, chúng ta cần nhìn lại quá trình hình thành và ý nghĩa của ngày này. Ngày Quốc khánh Việt Nam được tổ chức ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, khi nhân dân Việt Nam đã đứng lên giành lại quyền làm chủ số phận của mình sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp và phát xít Nhật chiếm đóng và bóc lột. Sau khi Nhật Bản đầu hàng Liên minh các nước Đồng minh vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, nhân dân Việt Nam đã khởi nghĩa trên khắp cả nước để tiêu diệt các tàn dư của Nhật Bản và Pháp, cũng như để thành lập chính quyền cách mạng. Trong các ngày từ 16 đến 28 tháng 8 năm 1945, các cuộc khởi nghĩa đã diễn ra thành công ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và nhiều tỉnh thành khác.
Sau khi trở về Hà Nội từ Chiến khu vào ngày 25 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì phiên họp của Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam để quyết định việc tổ chức lễ ra mắt chính phủ lâm thời và đọc Tuyên ngôn độc lập. Bác đã viết bản Tuyên ngôn độc lập trong hai ngày 28 và 29 tháng 8 năm 1945, trong đó nêu ra nhiều dẫn chứng về quyền con người của Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp (1791). Bản Tuyên ngôn độc lập không chỉ khẳng định quyền tự do, bình đẳng và hạnh phúc của mọi người, mà còn vạch trần tội ác của Thực dân Pháp và Phát xít Nhật đã gây ra cho dân tộc Việt Nam trong suốt bao năm qua.
Vào ngày 02 tháng 9 năm 1945, hơn vài chục vạn người đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân, với trang phục chỉnh tề, đã có mặt tại Quảng trường Ba Đình, hân hoan chờ đợi thời khắc lịch sử của dân tộc. Đúng 14 giờ, Bác và các vị trong Chính phủ lâm thời bước ra lễ đài. Trong không khí trang nghiêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong giai điệu hào hùng của bài Tiến quân ca vang lên, dưới mọi ánh mắt hướng về lá cờ đỏ sao vàng thiêng liêng của Tổ quốc được kéo lên. Từ đó ngày 2/9 luôn được nhớ đến là ngày Tết Độc lập, dấu son trong lịch sử dân tộc.
Giá trị lịch sử của ngày Quốc khánh Việt Nam là gì? Đó là giá trị của sự tự do, độc lập và chủ quyền của dân tộc Việt Nam trước các thế lực thù địch. Ngày Quốc khánh Việt Nam là kết quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc, một cuộc cách mạng do nhân dân Việt Nam tự mình nổ ra và tự mình thực hiện. Ngày Quốc khánh Việt Nam là biểu tượng của sự thống nhất và đoàn kết của dân tộc Việt Nam, khi mọi tầng lớp nhân dân đã cùng nhau đứng lên giành lại quyền làm chủ số phận của mình. Ngày Quốc khánh Việt Nam là minh chứng cho sự anh dũng và hy sinh của các thế hệ cha ông đã chiến đấu và hi sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Ngày Quốc khánh Việt Nam là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam từ thành công này sang thành công khác.
Giá trị lịch sử của ngày Quốc khánh Việt Nam cũng là giá trị hiện đại, vì nó là nguồn cảm hứng cho nhân dân Việt Nam tiếp tục xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, duy trì hòa bình và hợp tác quốc tế. Sau sự kiện trọng đại trên, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta ngày nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh… Từ một quốc gia kém phát triển, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đời sống của Nhân dân ngày càng được cải thiện tích cực. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Việt Nam sau chiến tranh được thế giới đánh giá như là một kỳ tích, một điểm sáng của thế giới với những tiến bộ vượt bậc về mọi mặt.
Đã 78 năm trôi qua nhưng tầm vóc, ý nghĩa cùng những bài học kinh nghiệm quý báu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Quốc khánh 02/9 vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục tỏa sáng trong sự nghiệp cách mạng của đất nước. Đó là cuộc hồi sinh vĩ đại của dân tộc, mở ra một thời đại phát triển rực rỡ của đất nước với những chiến công oanh liệt như chiến thắng Điện Biên Phủ, đại thắng mùa xuân 1975, với những thành tựu có tính lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước như lời của đồng chí Tổng Bí thư Nguyên Phú Trọng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”.
Thượng úy Lê Văn Vũ - Công an huyện Di Linh